quy trình làm gốm bát tràng
- Sản xuất trực tiếp, làm chủ quy trình, năng lực sản xuất (200.000 sản phẩm/ngày). Mẫu ấm chén đẹp. Mẫu ấm chén đẹp. Chuyên cung cấp Gốm Sứ Bát Tràng chất lượng cao với các sản phấm đa dạng: Bình gốm, bình trà gốm sứ, tách gốm sứ, ly gốm sứ, phin coffee
Cách bảo quản rượu tốt nhất. - Nhiệt độ: Rượu nếp được chứa trong chum sành đựng rượu thì nhiệt độ thích hợp nhất là 18-22 độ. Khi đó sẽ giúp cho quá trình khử độc tố trong rượu được tiến hành nhanh nhất, đẩy nhanh quá trình ngẫu rươu. Quá trình bảo
lộ trình chiều về: bát tràng (cách cổng chợ gốm bát tràng 100m) - đê long biên, xuân quan - phố trúc - đường phía tây phố trúc - đường rừng cọ - quay đầu tại bùng binh - phố trúc - đông dư - cự khối - tư đình - bồ đề - đường long biên, xuân quan - cầu chương dương - trần nhật duật - điểm trung chuyển long biên - quay đầu tại đối diện số 92 yên …
Sau một quy trình sản xuất tỉ mỉ đó của các nghệ nhân làng gốm Bát Tràng đã cho ra những sản phẩm gốm vô cùng tinh xảo đẹp mắt. Các công đoạn nghe qua thì đơn giản nhưng để tạo ra những sản phẩm gốm sứ đẹp mắt nhất, nghệ thuật nhất thì phải cần đến đôi bàn tay khéo léo tài năng của các nghệ
Làng gnhỏ Bát Tràng là 1 trong Một trong những buôn bản nghề truyền thống khôn xiết danh tiếng tại Thành Phố Hà Nội. Nếu vẫn đề nghị kiếm tìm một vị trí phượt trong thời gian ngày, hãy cùng Halo thử dùng Làng gnhỏ Bát Tràng tức thì dưới đây nhé! Ảnh: chouchouconner. Du
Ist Flirten In Einer Beziehung Erlaubt. Gốm Bát Tràng là tên gọi chung của các loại đồ gốm Việt Nam được sản xuất tại làng Bát Tràng, thuộc xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Theo nghĩa Hán Việt, chữ Bát 鉢 là bát ăn của nhà sư tiếng Phạn là Patra, chữ Tràng 場, còn đọc là Trường nghĩa là "cái sân lớn", là mảnh đất dành riêng cho chuyên môn. Theo các cụ già trong làng kể lại, chữ Bát bên trái là bộ "Kim-金" ví với sự giàu có, "本-bản" có nghĩa là cội nguồn, nguồn gốc. Dùng chữ Bát như vậy để khuyên răn con cháu "có nghề có nghiệp thì cũng không được quên gốc". Hiện nay, tại các đình, đền và chùa ở Bát Tràng đều vẫn còn các chữ Bát Tràng được viết bằng chữ Hán là đèn gốm tráng men lam, một loại sơn nổi tiếng của Bát Tràng ảnh chụp tại Bảo tàng lịch sử Việt Nam
Gốm Bát Tràng nổi tiếng gần xa từ xưa cho đến hiện tại, không đơn thuần khi một chất liệu gốm sứ đứng vững theo thời gian và độ nổi tiếng ngày càng lan rộng. Đằng sau những sản phẩm chất lượng là quy trình chế tác công phu ít ai biết đến. Vậy quy trình làm gốm Bát Tràng như thế nào?Mỗi sản phẩm gốm sứ Bát Tràng đều được làm thủ công từ khâu lựa chọn nguyên liệu đến thành phẩm cùng với đôi tay khéo léo của người nghệ nhân. Vì vậy không quá ngạc nhiên khi gốm Bát Tràng chinh phục được cả du khách gần xa, trong và ngoài nước. Ngay bây giờ Vinaly cùng bạn tìm hiểu về cách làm gốm Bát Tràng “nổi danh” này nhé!1. Chọn và xử lý đất – Nguyên liệu làm gốm Bát TràngKhâu đầu tiên vô cùng quan trọng quyết định chất lượng gốm sứ của những bước tiếp theo và suốt quy trình làm gốm Bát Tràng nói chung. Bát Tràng nổi tiếng bởi nguồn đất sét trắng đặc trưng và những trung tâm sản xuất cũng được xây dựng ngay tại nguồn. Các mỏ khai thác đất sét Bát Tràng được khai phá, phát triển từ xưa. Khi nguồn đất vơi dần, khoảng thế kỷ 18, người dân Bát Tràng phải đi tìm nguồn đất mới. Người dân tìm kiếm, định cư ở các vị trí giao thông thuận tiện, gần sông và bến cảng, sau đó dùng thuyền đi khai thác các nguồn đất mới. Từ vị trí Bát Tràng cũ người dân tỏa lên vùng Sơn Tây, Phúc Yên, xuôi dòng đến Đồng Triều và khai thác đất sét trắng ở Trúc Thôn, Hồ sau khi khai thác vẫn còn lẫn tạp chất, tùy thuộc vào mỗi sản phẩm có những cách pha đất khác nhau. Tại Bát Tràng, đất được xử lý truyền thống, được ngâm trong hệ thống bể chứa có cao độ khác nhau, cụ thểBể 1 có vị trí cao nhất dùng để ngâm đất sét thô và nước, thông thường trong khoảng 3 đến 4 tháng. Đất sét trắng được ngâm phân rã trong nước, sau đó đánh thật đều, tơi để đất hòa tan hoàn toàn thành hỗn hợp lỏng. Hỗn hợp này sẽ được chuyển đến bể 2 để đất sét lắng xuống, các tạp chất sẽ được loại bỏ ở công đoạn đến, hỗn hợp từ bể lắng sẽ được chuyển sang bể phơi, thông thường tại Bát Tràng công đoạn này thường diễn ra khoảng 3 ngày, sau đó chuyển sang bể cuối, tiến hành ủ, thời gian ủ càng lâu càng tính chất quan trọng của nguyên liệu, khâu xử lý đất tại làng gốm Bát Tràng qua nhiều công đoạn phức tạp. Tại đây tùy vào loại gốm nào mà người ta có thể pha thêm cao lanh với tỷ lệ khác và xử lý đất – Quy trình làm gốm Bát Tràng2. Tạo hình, dáng cho sản phẩmThợ gốm Bát Tràng sử dụng phương pháp cổ truyền để tạo dáng gốm sứ trên bàn xoay, trong khâu tạo dáng này, thợ gốm sử dụng lối “vuốt tay, be chạch” trên bàn xoay. Thợ làm gốm ngồi trên một cái ghế cao hơn mặt bàn sau đó dùng chân quay bàn xoay và dùng tay vuốt đất nhằm tạo dáng sản phẩm theo ý muốn định sẵn, tại đây hình dáng gốm sứ dần dần hình ra tạo hình sản phẩm gốm Bát Tràng bằng khuôn in cũng được sử dụng, khuôn được sử dụng được làm bằng thạch cao hoặc gỗ. Khuôn có cấu tạo từ đơn giản đến phức tạp. Cách tạo dáng này có thể tạo ra nhiều sản phẩm gốm Bát Tràng giống nhau, nhanh và đơn giản hơn, ngoài ra người ta còn sử dụng phương pháp đổ rót, “hồ đầy” để tạo dáng sản phẩm như mong hình gốm sứ Bát Tràng3. Phơi sấy và sửa sản phẩm gốm Bát TràngSản phẩm sau quá trình tạo hình được chuyển sang công đoạn tiếp theo là hong khô sao cho sản phẩm không bị nứt mẻ, không biến công đoạn này, các người thợ Bát Tràng thường để vật phẩm lên giá và hong khô tự nhiên ở nơi thoáng mát. Hiện đại người ta sử dụng lò sấy, tăng nhiệt độ dần để nước bốc hơi đồng thời điều chỉnh được cả thời gian và không bị phụ thuộc nhiều vào thời sản phẩm được định đình hoàn chỉnh nhất, thợ gốm Bát Tràng thường dùng bàn xoay đặt vật phẩm lên sau đó cho bàn xoay chuyển động nhẹ đến người thợ tiến hành các động tác cắt, gọt những chỗ thừa, bồi đắp chỗ khuyết để tạo sản phẩm hoàn chỉnh Trang trí hoa văn đặc trưng của gốm Bát TràngNgười nghệ nhân Bát Tràng dùng bút lông để vẽ những nét hoa văn mộc trực tiếp lên sản phẩm. Công đoạn này đòi hỏi sự tài hoa, khéo léo và kinh nghiệm của người thợ. Các họa tiết mềm mại, tỉ mỉ từ chính đôi bàn tay của người nghệ nhân làm nên những tác phẩm nghệ thuật không bị hòa lẫn bởi bất cứ họa tiết nghệ thuật gốm sứ Bát Tràng5. Lên men tráng men sản phẩmGốm Bát tràng được nhận diện bởi nét riêng không hòa lẫn vào đâu được, tráng men cũng là một khâu quan trọng trong quy trình làm gốm Bát Tràng làm nên nét đặc biệt của các sản phẩm tại tro một trong những men đặc sắc tại làng gốm Bát Tràng này, bên cạnh đó còn có men nâu được pha chế bằng cách trộn men tro và 5% hỗn hợp oxit sắt và oxit mangan gọi là “đá thối”.Ngoài ra các nghệ nhân Bát Tràng còn chế tạo ra một loại men lam nổi tiếng xa lam được chế tạo bằng cách pha trộn đá đỏ chứa oxit coban, đá thối, nghiễn nhuyễn và trộn với lớp men áo, lớp men này được nung ở 1250 độ C để lên màu chuẩn thế kỷ 17 nghệ nhân Bát Tràng dùng vôi sống trộn cùng cao lanh và tro trấu tạo nên lớp men mới màu hồng nhạt được gọi là men thợ Bát Tràng thường dùng cách chế tạo men bằng cách cho các nguyên liệu đã chuẩn bị, pha trộn, nghiền nhuyễn và khuấy tan đều trong nước, sau đó đợi lắng đọng và bỏ lớp nước bên trên cùng lớp đọng ở dưới cùng. Người ta sử dụng lớp giữa, đó là lớp men bóng dùng để phủ bên ngoài thành phẩm. Quy trình tráng men làm gốm Bát Tràng nổi tiếng6. Nung gốm Bát TràngQuy trình sản xuất gốm Bát Tràng sử dụng lò gas để nung đốt, mỗi lò từ 3 đến 6m3. Sản phẩm gốm sứ được xếp thành hàng và tầng, được kê trên những tấm chịu nhiệt, sau đó được di chuyển lên ray trượt vào lò đây gốm sứ được nung ở nhiệt độ độ C từ 12 tiếng đến 1 ngày theo từng sản phẩm khác nhau. Tiếp đến sản phẩm được để nguội tự nhiên hoàn toàn rồi mới được lấy ra khỏi là một công đoạn vô cùng quan trọng, quyết định chất lượng sản phẩm của toàn bộ quá trình. Các sản phẩm sau nung được phân loại, sửa chữa và loại bỏ các sản phẩm khuyết tật trước khi phân phối ra thị Một số sản phẩm gốm Bát Tràng đẹp nổi tiếngMỗi sản phẩm gốm sứ Bát Tràng đều mang nét nghệ thuật và độc đáo riêng cả về giá trị. Điểm qua một số sản phẩm nổi bật về “độ quý hiếm” làm chao đảo những người đam mê sưu tầm và trưng bày của dòng gốm sứ cổ Bát Tràng chiếc bình sứ cổ Bát Tràng nổi tiếng về giá trị và độ quý hiếmHoa văn và nét nghệ thuật làm nên giá trị của những sản phẩm gốm Bát TràngVậy là Vinaly vừa cùng bạn tìm hiểu chi tiết về quy trình làm gốm Bát Tràng được lưu truyền từ xưa cho đến hiện tại. Ngoài gốm Bát Tràng không ít người còn thắc mắc quy trình sản xuất gốm sứ thông thường và loại gốm này có điều gì khác biệt? Xem ngay quy trình sản xuất gốm sứ cùng Vinaly để tìm lời giải đáp nhé!
Quy trình làm gốm Bát Tràng cần sử dụng những nguyên liệu gì và trải qua những giai đoạn như thế nào để có thể tạo nên một sản phẩm hoàn hảo có lẽ là câu hỏi nhận được sự quan tâm của nhiều người. Hôm nay, Gốm sứ Bát Tràng 24h sẽ giới thiệu đến các bạn về quy trình làm gốm tỉ mỉ tại làng nghề Bát Tràng nhé! Tìm hiểu những điều thú vị trong quy trình làm gốm Bát Tràng Những nguyên liệu cần chuẩn bị khi bắt đầu quy trình làm gốm Bát Tràng Nguyên liệu chính thường được sử dụng trong quy trình sản xuất gốm Bát Tràng là đất sét có độ dẻo cao. Tuy nhiên, với gốm sứ Bát Tràng thì nguyên liệu mà được người nghệ nhân sử dụng chính là đất sét Trúc Thôn. Đây được biết đến là một loại đất có độ dẻo cao, khó tan trong nước, kết hợp cùng các hạt mịn dẻo. Loại đất này có màu trắng xám và có khả năng chịu mức lức khoảng 1650 độ C. Tuy nhiên, việc tìm kiếm đất sét ở Trúc Thôn cũng gặp khá nhiều hạn chế như chứa một lượng oxit sắt khá cao. Ngoài ra, đất cũng có độ ngót khi sấy khô lớn và bản thân nền gốc của loại đất này không được trắng lắm. Quy trình làm gốm Bát Tràng Quy trình làm gốm Bát Tràng Để có thể tạo nên những sản phẩm với mẫu mã đẹp mắt, thiết kế đa dạng, dưới đây là quy trình làm gốm của các nghệ nhân tại làng gốm Bát Tràng Chọn đất làm gốm Điều quan trọng nhất để bắt đầu tạo nên một sản phẩm chính là chọn được loại đất sét có màu trắng cùng độ dẻo cao, khó tan trong nước, hạt mịn. Đây là các yếu tố mà người nghệ nhân luôn phải chọn lọc một cách kỹ càng, cẩn thận. >> Xem thêm Đất sét làm gốm - Tinh hoa tạo nên những tuyệt tác gốm sứ Xử lý, pha chế đất làm gốm Trong loại đất sét dùng để làm nguyên liệu thường có lẫn những tạp chất nên chúng thường được xử lý một cách cẩn thận trước khi bắt đầu vào công đoạn thực hiện. Hiện nay, phương pháp xử lý đất được phân theo ở từng cấp độ khác nhau Bề 1 Đây là bề dùng để ngâm đất sét khô và nước, quá trình nhằm phá vỡ kết cấu hạt đất nguyên thủy và chúng bắt đầu quá trình phân rã. Bề 2 Khi đất sét đã được ngâm trong bề 1 trong thời gian 3 – 4 tháng, chúng sẽ được đánh thật đều và cho xuống bề 2 để xử lý, Bề 3 Người thợ sẽ dùng để chứa hồ loãng ở bề 2 trong khoảng 3 ngày. Bề 4 Sử dụng để khử mọi tạp chất còn sót lại trong đất sét sau khi đã trải qua 3 bề. Quy trình sản xuất gốm bát tràng Sáng tạo về kiểu dáng cho sản phẩm Để có thể tạo nên kiểu dáng hoàn chỉnh cho một sản phẩm, người thợ sẽ sử dụng bàn xoay kết hợp với đôi bàn tay khéo léo để thực hiện. Trong bước này, người thợ sẽ sử dụng phương pháp vuốt tay, be chạch trên chiếc bàn xoay. Người thợ làm gốm sẽ ngồi ở một cái ghế cao hơn mặt bàn, sau đó sử dụng chân quay bàn xoay. Tiếp theo là dùng tay để vuốt đất và tạo thành những kiểu dáng mình muốn. Phơi sấy và sửa hàng mộc Sau khi đã thực hiện xong các bước tạo kiểu dáng, người thợ sẽ phơi khô gốm. Tuy nhiên, hiện nay nhiều lò gốm đã sử dụng phương pháp sấy trong lò, sau đó là tăng nhiệt độ từ từ để nước bốc hơi dần và giúp gốm vẫn được cứng, chắc chắn. Sản phẩm đồ thờ cúng cao cấp Bát Tràng Trang trí hoa văn Sau khi phần men gốm đã khô, người thợ sẽ sử dụng bút lông vẽ trực tiếp trên nền mộc mạc các hoa văn, họa tiết theo ý muốn của khách hàng hoặc những hình vẽ đơn giản như cảnh làng quê Việt Nam, cuộc sống giản dị của những người thôn quê,… các loại hoa như hoa đào, hoa mai,… Chế tạo men Người thợ làng gốm sẽ chế tạo men bằng cách cho các nguyên liệu đã nghiền, lọc kĩ rồi trộn đều với nhau. Sau đó, họ sẽ khuấy tan trong nước và đợi đến khi lắng xuống và loại bỏ toàn toàn nước trong ở trên và bã động ở dưới để chỉ lấy phần lơ lửng ở giữa. Đây chính là lớp men bóng để phủ bên ngoài đồ gốm. Bình hút tài lộc được phủ men bóng cao cấp Tráng men gốm Sau khi phần gốm mộc đã được hoàn chỉnh, người thợ sẽ nung sản phẩm ở nhiệt độ thấp, sau đó mới đem đi tráng men hoặc cũng có thể sử dụng sản phẩm mộc trực tiếp tráng men rồi mới thực hiện nung. Điều này, phụ thuộc vào cách làm của mỗi nghệ nhân để tạo ra một thành phẩm đẹp nhất. Nung sản phẩm gốm sứ Đây là công đoạn cuối cùng trong quy trình làm gốm sứ Bát Tràng. Đối với công đoạn này, người thợ sẽ chú ý đến việc tăng nhiệt độ cho lò nung dần dần để lò đạt đến nhiệt độ chuẩn nhất cho đến khi gốm chín thì sẽ hạ nhiệt từ từ. Sau khi kết thúc, quá trình làm nguội sản phẩm sẽ kéo dài khoảng 2 ngày 2 đêm. Sau đó, người thợ mới để nguội trong khoảng 1 ngày 1 đêm nữa rối mới cho sản phẩm ra lò, phân loại và bắt đầu lau rửa, phân phối đến thị trường. Nung sản phẩm gốm sứ - Quy trình làm gốm Bát Tràng Lưu ngay địa chỉ mua đồ gốm sứ uy tín, chất lượng Nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng, Làng Bát Tràng đã và đang sản xuất rất nhiều mặt hàng gốm sứ với những kiểu dáng, màu sắc đa dạng. Hiện Gốm sứ Bát Tràng 24h đang phân phối tất cả những mặt hàng đó. Chúng tôi cam kết chỉ bán những mặt hàng được sản xuất bởi những nghệ nhân làng gốm Bát Tràng. Sản phẩm có giấy tờ chứng minh nguồn gốc xuất xứ. Với chất lượng, mẫu mã đa dạng, tính thẩm mỹ cao... Quy trình làm gốm bát tràng tại Battrang24h tại nên những bộ sản phẩm ấm chén Bát Tràng độc đáo Hiện nay, sản phẩm gốm Bát Tràng ngày càng được người tiêu dùng ưa chuộng. Chúng tôi sẽ hoàn tiền nếu như sản phẩm bị lỗi, bị sứt mẻ trong cửa hàng, quý khách có thể yên tâm về chất lượng. Nếu bạn có nhu cầu mua Ấm chén men lam cổ, khay đựng, phụ kiện, đồ thờ cúng men màu và men rạn như Bát hương, bát nắp, chóe đựng nước thờ, đèn dầu thờ... thì còn chờ gì mà không đến ngay Gốm sứ Bát Tràng 24h để lựa chọn và mua sắm ngay thôi nào. Cùng Battrang24h tìm hiểu về quy trình làm gốm Bát Tràng Quý khách hàng chỉ cần nhấc máy và gọi ngay tới hotline Call/Zalo/Viber hoặc để được giải đáp mọi thắc mắc về sản phẩm cũng như nhận tư vấn từ đội ngũ tư vấn viên nhiều kinh nghiệm. “XƯỞNG GỐM BÁT TRÀNG 24H - UY TÍN QUÝ HƠN VÀNG” Trang web Hotline/zalo / Fanpage
Bát Tràng là làng nghề gốm sứ lâu đời nhất tại Việt Nam với khoảng hơn 500 năm tồn tại. Các sản phẩm gốm sứ Bát Tràng rất đa dạng về chủng loại, kích thước, mẫu mã… Mặc dù họa tiết trang trí ở gốm sứ Bát Tràng có sự lặp đi lặp lại tuy nhiên bằng cách tạo hình, cách thể hiện khác nhau của những nghệ nhân mỗi sản phẩm gốm sứ Bát Tràng luôn mang lại những cảm nhận, những sự thu hút rất riêng. Quy trình làm gốm sứ như thế nào? Có gì khác biệt giữa quy trình làm gốm sứ Bát Tràng? Cùng Gốm sứ Bát Tràng 360 tìm hiểu chi tiết qua nội dung bài viết sau đây nhé. Gợi ý Địa chỉ bán ấm chén in logo giá rẻ nhất Việt NamHàng gốm sứ ngoài để sử dụng còn dùng để trang trí nội thấtQuy trình làm gốm sứĐể tạo ra được một sản phẩm gốm sứ hoàn chỉnh, người nghệ nhân, thợ gốm sẽ thực hiện 8 bước cơ bản. Đây cũng chính là quy trình làm gốm sứ. Các bước trong quy trình làm gốm sứChọn đất sử dụngXử lý đất làm gốmTạo hình sản phẩm gốmPhơi sấy, sửa hàng mộcTrang trí các hoa văn, họa tiếtChế tạo menTráng menNungChọn đất sử dụng làm gốmGốm sứ Bát Tràng được làm từ đất sét. Tuy nhiên để tạo nên những sản phẩm gốm sứ Bát Tràng chất lượng loại đất sét được chọn phải là loại đất sét trắng có độ dẻo cao, hạt mịn và đặc biệt khó tan trong nước. >>> Có thể bạn quan tâm Cách xử lý đất địa phương trong sản xuất gốm sứXử lý đất làm gốmMục đích của việc xử lý là để loại bỏ hoàn toàn những tạp chất, kim loại còn trong đất. Điều này đảm bảo tất cả các sản phẩm gốm sứ Bát Tràng đều an toàn tuyệt đối với sức khỏe người theo từng sản phẩm gốm sứ đất sét sẽ được xử lý, pha chế theo những cách phù hợp. Phương pháp xử lý đất truyền thống của Bát Tràng là xử lý bằng cách ngâm nước trong hệ thống 4 bể chứa ở các độ cao khác nhau. Quy trình ngâm từ bể 1 – bể 2 – bể 3 – bể 4. Trong đóBể 1 dùng để ngâm đất sét khô và nước trong từ 3 đến 4 2 dùng để ngâm hồ trong khoảng 3 3 dùng để ngâm hỗ 4 dùng để loại bỏ những tạp chất có thể còn sót hình sản phẩm gốmSản phẩm gốm sứ Bát Tràng được tạo hình bằng tay trên bàn xoay. Đây là phương pháp tạo hình gốm cổ truyền của Bát Tràng. Cách thực hiện cụ thể như sau người thợ gốm dùng tay vuốt và be chạch trên bàn xoay bằng hai ngón tay bên phải. Trước khi được đưa vào bàn xoay đất được vò nhuyễn và cuốn thành sấy, sửa hàng mộcSản phẩm gốm sứ sau khi được tạo hình được gọi là hàng mộc. Ngay sau khi dời bàn xoay, hàng mộc được phơi sấy và sau đó là phơi sấy cần đảm bảo sao cho sản phẩm không bị khô, không bị nứt nẻ, không làm thay đổi hình dáng sản phẩm. Phương pháp phơi sấy hàng mộc của Bát Tràng là hong khô bằng gió, nắng tự nhiên. Ngoài ra, hiện nay một số xưởng sản xuất gốm sứ Bát Tràng đã áp dụng cách sấy hàng khô trong lò trí các hoa văn, họa tiếtNgười nghệ nhân Bát Tràng trang trí các hoa văn, họa tiết trên sản phẩm bằng phương pháp thủ công. Có nghĩa người thợ gốm sẽ dùng dùng bút lông vẽ trực tiếp lên sản phẩm. Để đảm bảo tính thẩm mỹ, tăng tính nghệ thuật cho các sản phẩm người thợ gốm Bát Tràng sẽ kết hợp sử dụng thêm các phương pháp đánh chỉ, vẽ men màu, bôi men chảy màu…Chế tạo menMen được chế tạo theo phương pháp ướt. Cách chế tạo men cụ thể như sau 1- nghiền, lọc kĩ các nguyên liệu tạo men; 2- trộn chung các nguyên liệu rồi khuấy tan trong nước; 3- khi các nguyên liệu lắng xuống tiến hành bỏ phần nước trong ở trên và bã đọng ở dưới đay thu lấy các dị lửng ở giữa. Các dị lửng chính là lớp men được sử dụng phủ ngoài sản phẩm gốm menViệc tráng men có thể thực hiện trực tiếp lên sản phẩm mộc hoặc người thợ gốm cũng có thể nung sơ ở nhiệt độ thấp hàng mộc rồi mới đem tráng men. Trường hợp chọn cách nung sơ, quy trình làm gốm sứ sẽ có 9 bướcThông thường người thợ gốm Bát Tràng sẽ tráng men trực tiếp lên sản phẩm là công đoạn đặc biệt quan trọng trong quy trình làm gốm sứ vì mang tính quyết định tới chất lượng sản phẩm và quyết định tới sự thành – bại của cả mẻ gốm. Đó chính là lý do vì sao trước khi đốt lò người thợ gốm Bát Tràng luôn thắp ba nén hương cầu khấn trời đất, thần lửa phù tắc nung gốm sứ Bát Tràng là nâng dần nhiệt độ cho tới khi lò đạt tới nhiệt độ cao nhất sau đó khi gốm chính tiến hành hạ nhiệt độ từ biệt trong quy trình làm gốm sứ Bát TràngMột quy trình làm gốm sứ như trên thường kéo dài khoảng từ 10 đến 15 ngày. Qua những trình bày chi tiết về quy trình làm gốm sứ của làng gốm sứ Bát Tràng, chúng ta có thể thấy sự khác biệt trong quy trình làm gốm sứ Bát Tràng là tính thủ công. Và đây cũng chính là yếu tố giúp gốm sứ Bát Tràng đặc biệt hơn so với các sản phẩm gốm sứ sản xuất trong nhà xưởng có nhiều máy móc hiện khi được làm thủ công mặc dù được trang trí bởi những hoa văn, họa tiết trang trí giống nhau tuy nhiên mỗi sản phẩm gốm sứ Bát Tràng vẫn cho người nhìn có được những cảm nhận và tạo được sự ấn tượng, nét độc đáo, thu hút rất sản phẩm gốm sứ Bát Tràng phổ biến trên thị trườngTrên thị trường các sản phẩm gốm sứ Bát Tràng rất phổ biến và được chọn mua nhiều nhất. Đơn giản vì đồ gốm sứ Bát Tràng có sự đa dạng về loại, kiểu dáng đẹp và nhất là mức giá hợp sản phẩm gốm sứ Bát Tràng phổ biến nhất nhưẤm chén Bát TràngBát đĩa Bát TràngLọ lộc bình Bát TràngTranh gốm sứ Bát TràngĐồ thờ cúng Bát TràngLọ hoaĐồ trang trí bằng gốm sứCửa hàng Gốm sứ Bát Tràng 360 số 66 Nguyễn Đức Thuận, Thạch Bàn, Long Biên, Hà Nội tự hào là nhà cung cấp gốm sứ Bát Tràng giá rẻ, uy tín số 1 hiện nay. Gốm sứ Bát Tràng 360 cam kết 100% chỉ cung cấp sản phẩm gốm sứ Bát Tràng hàng chuẩn, giá ảnh sản phẩm tại cửa hàngHình ảnh xưởng sản xuất gốm sứ Bát Tràng 360Bên cạnh các sản phẩm có sẵn tại cửa hàng, Gốm sứ Bát Tràng 360 còn có dịch vụ làm gốm sứ Bát Tràng theo yêu cầu và in kèm logo lên sản phẩm. Khách hàng được hỗ trợ lên maket hoàn chỉnh với các dịch vụ tiết thông tin dịch vụ cũng như mức giá từng loại sản phẩm, quý khách hàng quan tâm xin vui lòng gọi tới số hotline 0936 158 369 24/7 để Gốm sứ Bát Tràng được kịp thời hỗ trợ trực tiếp. Nên xem thêm Cách bày trí bàn thờ gia tiên như thế nào cho đúng lễ nghi, phong thủy
Gốm Bát Tràng là tên gọi chung cho các loại đồ gốm Việt Nam được sản xuất tại làng Bát Tràng, thuộc xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Theo nghĩa Hán Việt, chữ Bát 鉢 là bát ăn của nhà sư tiếng Phạn là Patra, chữ Tràng 場, còn đọc là Trường nghĩa là “cái sân lớn”, là mảnh đất dành riêng cho chuyên môn. Theo các cụ già trong làng kể lại, chữ Bát bên trái là bộ “Kim-金” ví với sự giàu có, “本-bản” có nghĩa là cội nguồn, nguồn gốc. Dùng chữ Bát như vậy để khuyên răn con cháu “có nghề có nghiệp thì cũng không được quên gốc”. Hiện nay, tại các đình, đền và chùa ở Bát Tràng đều vẫn còn các chữ Bát Tràng được viết bằng chữ Hán là 鉢場. Chân đèn gốm tráng men lam, một loại men nổi tiếng của Bát Tràng ảnh chụp tại Bảo tàng lịch sử Việt Nam Xã Bát Tràng 社鉢場 là tên gọi từ trước năm 1945 của làng Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội. Khi nhà Lý dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, người dân thôn Bát Tràng di cư từ làng Bồ Bát xã Bồ Xuyên và trang Bạch Bát thuộc tổng Bạch Bát, huyện Yên Mô, phủ Trường Yên, trấn Thanh Hóa ngoại, nay là hai thôn của xã Yên Thành, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, theo vua Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Khi những người dân Bạch Bát đến vùng đất bồi bên bờ sông Hồng, Họ đã lập phường làm nghề gốm; lúc đầu thôn Bát Tràng được gọi là Bạch Thổ Phường, sinh sống chủ yếu bằng nghề làm gốm sứ, buôn bán và làm quan. Thời nhà Hậu Lê, xã Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc. Sang thời nhà Nguyễn, năm 1822 trấn Kinh Bắc đổi làm trấn Bắc Ninh, năm 1831 đổi làm tỉnh Bắc Ninh, lúc này xã Bát Tràng thuộc tổng Đông Dư, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An. Đến năm 1862 chia về phủ Thuận Thành và năm 1912 chia về phủ Từ Sơn. Từ tháng 2 đến tháng 11 năm 1949, huyện Gia Lâm thuộc về tỉnh Hưng Yên. Từ năm 1961 đến nay, huyện Gia Lâm thuộc ngoại thành Hà Nội. Năm 1948, xã Bát Tràng nhập với xã Giang Cao và xã Kim Lan lập thành xã Quang Minh. Từ năm 1964, xã Bát Tràng được thành lập gồm 2 thôn Bát Tràng và Giang Cao như hiện nay. Năm 1958, nhà nước thực hiện đào sông Bắc Hưng Hải – Đại thuỷ nông Bắc Hưng Hải làm thuỷ lợi tưới tiêu cho một vùng đồng ruộng rộng lớn của 3 tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, tạo ra thêm một con đường mới đi vào xã Bát Tràng, vì vậy từ Hà Nội, có thể theo đường thuỷ từ bến Chương Dương hoặc bến Phà Đen, xuôi sông Hồng đến bến Bát Tràng, cũng có thể theo đường bộ qua sông Hồng rồi theo đê sông Hồng đến dốc Giang Cao rẽ xuống Bát Tràng khoảng 15 km hoặc theo quốc lộ số 5 đến Trâu Quỳ rẽ về phía tay phải theo đường liên huyện qua xã Đa Tốn đến Bát Tràng khoảng hơn 20 km. Ngày nay việc đến Bát Tràng rất thuận lợi vì từ năm 2006, công ty vận tải Hà Nội đã mở tuyến xe buýt 47 về đến Chợ Gốm Làng cổ Bát Tràng là điểm cuối bến. Quy trình phát triển gốm sứ bát tràng Để làm ra đồ gốm người thợ gốm Bát Tràng phải qua các khâu chọn, xử lý và pha chế đất, tạo dáng, tạo hoa văn, phủ men, và cuối cùng là nung sản phẩm. Kinh nghiệm truyền đời của dân làng gốm Bát Tràng là “Nhất xương, nhì da, thứ ba dạc lò”. Người thợ gốm Bát Tràng quan niệm hiện vật gốm không khác nào một cơ thể sống, một vũ trụ thu nhỏ trong đó có sự kết hợp hài hòa của Ngũ hành 五行 là kim 金, mộc 木, thuỷ 水, hoả 火 và thổ 土. Sự phát triển của nghề nghiệp được xem như là sự hanh thông của Ngũ hành mà sự hanh thông của Ngũ hành lại nằm trong quá trình lao động sáng tạo với những quy trình kĩ thuật chặt chẽ, chuẩn xác. Tượng nghê bằng gốm do thợ gốm làng Bát Tràng làm thời Cảnh Hưng. A. Quá trình tạo cốt gốm Bát Tràng 1. Chọn đất Điều quan trọng đầu tiên để hình thành nên các lò gốm là nguồn đất sét làm gốm. Những trung tâm sản xuất gốm thời cổ thường là sản xuất trên cơ sở khai thác nguồn đất tại chỗ. Làng gốm Bát Tràng cũng vậy, sở dĩ dân làng Bồ Bát chọn khu vực làng Bát Tràng hiện nay làm đất định cư phát triển nghề gốm vì trước hết họ đã phát hiện ra mỏ đất sét trắng ở đây. Đến thế kỉ 18, nguồn đất sét trắng tại chỗ đã cạn kiệt nên người dân Bát Tràng buộc phải đi tìm nguồn đất mới. Không giống như tổ tiên, dân Bát Tràng vẫn định cư lại ở các vị trí giao thông thuận lợi và thông qua dòng sông bến cảng, dùng thuyền toả ra các nơi khai thác các nguồn đất mới. Từ Bát Tràng ngược sông Hồng lên vùng Sơn Tây, Phúc Yên, rẽ qua sông Đuống, xuôi dòng Kinh Thầy đến Đông Triều, khai thác đất sét trắng ở Hồ Lao, Trúc Thôn. Đất sét Trúc Thôn có độ dẻo cao, khó tan trong nước, hạt mịn, màu trắng xám, độ chịu lửa ở khoảng 1650°C. Thành phần hoá học tính trung bình theo % trọng lượng của đất sét Trúc Thôn như sau Al203 27,07; Si02 55,87; Fe203 1,2; Na2O 0,7; CaO 2,57; MgO 0,78; K2O 2,01; Ti02 0,81. Tuy là loại đất tốt được người thợ gốm Bát Tràng ưa dùng nhưng sét Trúc Thôn cũng có một số hạn chế như chứa hàm lượng ôxít sắt khá cao, độ ngót khi sấy khô lớn và bản thân nó không được trắng. Quy trình luyện đất để làm gốm cũng rất công phu, nhiều quy trình nghiêm ngặt, tỉ mỉ. 2. Xử lý, pha chế đất Trong đất nguyên liệu thường có lẫn tạp chất, ngoài ra tuỳ theo yêu cầu của từng loại gốm khác nhau mà có thể có những cách pha chế đất khác nhau để tạo ra sản phẩm phù hợp. Ở Bát Tràng, phương pháp xử lý đất truyền thống là xử lý thông qua ngâm nước trong hệ thống bể chứa, gồm 4 bể ở độ cao khác nhau. Bể thứ nhất ở vị trí cao hơn cả là “bể đánh” dùng để ngâm đất sét thô và nước thời gian ngâm khoảng 3-4 tháng. Đất sét dưới tác động của nước sẽ bị phá vỡ kết cấu hạt nguyên thuỷ của nó và bắt đầu quá trình phân rã dân gian gọi là ngâm lâu để cho đất nát ra. Khi đất đã “chín” cách gọi dân gian, đánh đất thật đều, thật tơi để các hạt đất thực sự hoà tan trong nước tạo thành một hỗn hợp lỏng. Sau đó tháo hỗn hợp lỏng này xuống bể thứ hai gọi là “bể lắng” hay “bể lọc”. Tại đây đất sét bắt đầu lắng xuống, một số tạp chất nhất là các chất hữu cơ nổi lên, tiến hành loại bỏ chúng. Sau đó, múc hồ loãng từ bể lắng sang bể thứ ba gọi là “bể phơi”, người Bát Tràng thường phơi đất ở đây khoảng 3 ngày, sau đó chuyển đất sang bể thứ tư là “bể ủ”. Tại bể ủ, ôxyt sắt Fe2O3 và các tạp chất khác bị khử bằng phương pháp lên men tức là quá trình vi sinh vật hoá khử các chất có hại trong đất. Thời gian ủ càng lâu càng tốt. Nhìn chung, khâu xử lý đất của người thợ gốm Bát Tràng thường không qua nhiều công đoạn phức tạp. Trong quá trình xử lý, tuỳ theo từng loại đồ gốm mà người ta có thể pha thêm cao lanh ở mức độ nhiều ít khác nhau. 3. Tạo dáng Phương pháp tạo dáng cổ truyền của người làng Bát Tràng là làm bằng tay trên bàn xoay. Trong khâu tạo dáng, người thợ gốm Bát Tràng sử dụng phổ biến lối “vuốt tay, be chạch” trên bàn xoay, trước đây công việc này thường vẫn do phụ nữ đảm nhiệm. Thợ ngồi trên một cái ghế cao hơn mặt bàn rồi dùng chân quay bàn xoay và tay vuốt đất tạo dáng sản phẩm. Đất trước khi đưa vào bàn xoay được vò cho thật nhuyễn, cuốn thành thoi rồi ném “bắt nẩy” để thu ngắn lại. Sau đó người ta đặt vào mà giữa bàn xoay, vỗ cho đất dính chặt rồi lai nén và kéo cho đất nhuyễn dẻo mới “đánh cử” đất và “ra hương” chủ yếu bằng hai ngón tay bên phải. Sau quá trình kéo đất bằng tay và bằng sành tới mức cần thiết người thợ sẽ dùng sành dan để định hình sản phẩm. Sản phẩm “xén lợi” và “bắt lợi” xong thì được cắt chân đưa ra đặt vào “bửng”. Việc phụ nữ sử dụng bàn xoay vuốt tạo dáng ban đầu của sản phẩm là công việc bình thường phổ biến ở mỗi lò gốm cổ Việt Nam không chỉ riêng Bát Tràng nhưng lại rất xa lạ với một số người thợ gốm phương Tây. Tuy thế, kĩ thuật này đã mất dần và hiện nay không còn mấy người thợ gốm Bát Tràng còn có thể làm được công việc này nữa. “Be chạch” cũng là một hình thức vuốt sản phẩm trên bàn xoay nhẹ đà và chủ yếu do thợ đàn ông đảm nhiệm. Người thợ “đắp nặn” gốm là người thợ có trình độ kĩ thuật và mĩ thuật cao. Có khi họ đắp nặn một sản phẩm gốm hoàn chỉnh, nhưng cũng có khi họ đắp nặn từng bộ phận riêng rẽ của một sản phẩm và sau đó tiến hành chắp ghép lại. Hiện nay theo yêu cầu sản xuất gốm công nghiệp hay mĩ nghệ, nghệ nhân gốm có thể đắp nặn một sản phẩm mẫu để đổ khuôn thạch cao phục vụ cho việc sản xuất hàng loạt. Việc tạo hình sản phẩm gốm theo khuôn in khuôn thạch cao hay khuôn gỗ được tiến hành như sau đặt khuôn giữa bàn xoay, ghim chặt lại, láng lòng khuôn rồi ném mạnh đất in sản phẩm giữa lòng khuôn cho bám chắc chân, vét đất lên lợi vành, quay bàn xoay và kéo cán tới mức cần thiết đề tạo sản phẩm. Ngày nay người làng gốm Bát Tràng sử dụng phổ biến kĩ thuật “đúc” hiện vật. Muốn có hiện vật gốm theo kĩ thuật đúc trước hết phải chế tạo khuôn bằng thạch cao. Khuôn có cấu tạo từ đơn giản đến phức tạp. Loại đơn giản là khuôn hai mang, loại phức tạp thì thường cớ nhiều mang, tuỳ theo hình dáng của sản phẩm định tạo. Cách tạo dáng này trong cùng một lúc có thể tạo ra hàng loạt sản phẩm giống nhau, rất nhanh và giản tiện. Ngoài ra người ta còn dùng phương pháp đổ rót đổ “hồ thừa” hay “hồ đầy” để tạo dáng sản phẩm. 4. Phơi sấy và sửa hàng mộc Tiến hành phơi sản phẩm mộc sao cho khô, không bị nứt nẻ, không làm thay đổi hình dáng của sản phẩm. Biện pháp tối ưu mà xưa nay người Bát Tràng vẫn thường sử dụng là hong khô hiện vật trên giá và để nơi thoáng mát. Ngày nay phần nhiều các gia đình sử dụng biện pháp sấy hiện vật trong lò sấy, tăng nhiệt độ từ từ để cho nước bốc hơi dần dần. Sản phẩm mộc đã định hình cần đem “ủ vóc” và sửa lại cho hoàn chỉnh. Người thợ gốm đặt sản phẩm vào mà trên bàn xoay nhẹ đà rồi vừa xoay bàn xoay vừa đẩy nhẹ vào chân vóc cho cân, dùng dùi vỗ nhẹ vào chân “vóc” cho đất ở chân “vóc” chặt lại và sản phẩm tròn trở lại gọi là “lùa”. Người thợ gốm tiến hành các động tác cắt, gọt chỗ thừa, bồi đắp chỗ khuyết, chắp các bộ phận của sản phẩm như vòi ấm, quai tách…, khoan lỗ trên các sản phẩm, tỉa lại đường nét hoa văn và thuật nước cho mịn mặt sản phẩm. Những sản phẩm sửa lại mà không dùng bàn xoay thì gọi là “làm hàng bộ”, phải dùng bàn xoay thì gọi là “làm hàng bàn”. Theo yêu cầu trang trí, có thể đắp thêm đất vào một vài vùng nào đó trên sản phẩm rồi cắt tỉa để tạo hình đắp phù điêu, có khi phải khắc sâu các hoạ tiết trang trí trên mặt sản phẩm… B. Quá trình trang trí hoa văn và phủ men lên Gốm Bát Tràng 1. Kỹ thuật vẽ Thợ gốm Bát Tràng dùng bút lông vẽ trực tiếp trên nền mộc các hoa văn hoạ tiết. Thợ vẽ gốm phải có tay nghề cao, hoa văn họa tiết phải hài hoà với dáng gốm, các trang trí hoạ tiết này đã nâng nghề gốm lên mức nghệ thuật, mỗi chiếc là một tác phẩm. Thợ gốm Bát Tràng cũng đã dùng rất nhiều hình thức trang trí khác, có hiệu quả nghệ thuật như đánh chỉ, bôi men chảy màu, vẽ men màu… Gần đây, Bát Tràng xuất hiện kĩ thuật vẽ trên nền xương gốm đã nung sơ lần 1 hoặc kĩ thuật hấp hoa, một lối trang trí hình in sẵn trên giấy decal, nhập từ nước ngoài. Hai kiểu này tuy đẹp nhưng không phải là truyền thống của Bát Tràng. Những loại này không được coi là nghệ thuật và sáng tạo trong di sản gốm Bát Tràng, cũng như gốm Việt Nam nói chung. Những sản phẩm này ra đời nhằm phục vụ nhu cầu của đại đa số người dân ở những vùng nông thôn. Nhằm mục đích hưởng ứng phong trào “Người Việt Nam, ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Những dòng sản phẩm này có ưu điểm là rất bắt mắt và giá thành cũng thấp hơn phương pháp vẽ tay truyền thống. 2. Chế tạo men Men tro là men đặc sắc của gốm Bát Tràng, ngoài ra còn có men màu nâu, thành phần loại men này bao gồm men tro cộng thêm 5% đá thối hỗn hợp ôxít sắt và ôxít mangan lấy ở Phù Lãng, Hà Bắc. Từ thế kỉ 15 thợ gốm Bát Tràng đã từng chế tạo ra loại men lam nổi tiếng. Loại men này được chế từ đá đỏ có chứa ôxít côban đá thối chứa ôxít mangan nghiền nhỏ rồi trộn với men áo. Men lam phát màu ở nhiệt độ 1250 °C. Đầu thế kỉ 17 người Bát Tràng dùng vôi sống, tro trấu và cao lanh chùa Hội thuộc Bích Nhôi, Kinh Môn, Hải Dương có màu hồng nhạt điều chế thành một loại men mới là men rạn. Thợ gốm Bát Tràng thường quen sử dụng cách chế tạo men theo phương pháp ướt bằng cách cho nguyên liệu đã nghiền lọc kĩ trộn đều với nhau rồi khuấy tan trong nước đợi đến khi lắng xuống thì bỏ phần nước trong ở trên và bã đọng ở dưới đáy mà chỉ lấy các “dị” lơ lửng ở giữa, đó chính là lớp men bóng để phủ bên ngoài đồ vật. Trong quá trình chế tạo men người thợ gốm Bát Tràng nhận thấy để cho men dễ chảy hơn thì phải chế biến bột tro nhỏ hơn nhiều so với bột đất, vì thế mà có câu “nhỏ tro to đàn”. 3. Tráng men Khi sản phẩm mộc đã hoàn chỉnh, người thợ gốm có thể nung sơ bộ sản phẩm ở nhiệt độ thấp rồi sau đó mới đem tráng men hoặc dùng ngay sản phẩm mộc hoàn chỉnh đó trực tiếp tráng men lên trên rồi mới nung. Người thợ gốm Bát Tràng thường chọn phương pháp tráng men trực tiếp lên trên sản phẩm mộc hoàn chỉnh. Sản phẩm mộc trước khi đem tráng men phải được làm sạch bụi bằng chổi lông. Những sản phẩm mà xương gốm có màu trước khi tráng men phải có một lớp men lót để che bớt màu của xương gốm, đồng thời cũng phải tính toán tính năng của mỗi loại men định tráng lên từng loại xương gốm, nồng độ men, thời tiết và mức độ khó của xương gốm… Kĩ thuật tráng men có nhiều hình thức như phun men, dội men lên bề mặt cốt gốm cỡ lớn, nhúng men đối với loại gốm nhỏ nhưng thông dụng nhất là hình thức láng men ngoài sản phẩm, gọi là “kìm men”, và khó hơn cả là hình thức “quay men” và “đúc men”. Quay men là hình thức tráng men bên trong và bên ngoài sản phẩm cùng một lúc, còn đúc men thì chỉ tráng men trong lòng sản phẩm. Đây là những thủ pháp tráng men của thợ gốm Bát Tràng, vừa là kĩ thuật vừa là nghệ thuật, được bảo tồn qua nhiều thế hệ, thậm chí đã từng là bí quyết trong nghề nghiệp ở đây. 4. Sửa hàng men Người thợ gốm tiến hành tu chỉnh lại sản phẩm lần cuối trước khi đưa vào lò nung. Trước hết phải xem kĩ từng sản phẩm một xem có chỗ nào khuyết men thì phải bôi quệt men vào các vị trí ấy. Sau đó họ tiến hành “cắt dò” tức cạo bỏ những chỗ dư thừa men, công việc này gọi là “sửa hàng men”. C. Quá trình nung Gốm Bát Tràng Khi công việc chuẩn bị hoàn tất thì đốt lò trở thành khâu quyết định sự thành công hay thất bại của một mẻ gốm. Vì thế giờ phút nhóm lò trở nên thiêng liêng trọng đại với người thợ gốm. Người thợ cả cao tuổi nhất thắp ba nén hương và thành kính cầu mong trời đất và thần lửa phù giúp. Việc làm chủ ngọn lửa theo nguyên tắc nâng dần nhiệt độ để lò đạt tới nhiệt độ cao nhất và khi gốm chín thì lại hạ nhiệt độ từ từ chính là bí quyết thành công của khâu đốt lò. Trước đây người thợ gốm Bát Tràng chuyên sử dụng các loại lò như lò ếch hay lò cóc, lò đàn và lò bầu để nung gốm, sau này, xuất hiện thêm nhiều loại lò nung khác, càng ngày càng hiện đại và đơn giản trong việc thao tác hơn. D. Lò nung Gốm Bát Tràng 1. Lò ếch Là kiểu lò gốm cổ nhất được sử dụng một cách phổ biến ở khắp mọi nơi, hiện nay mất hết dấu tích nhưng qua các nguồn tư liệu gián tiếp vẫn có thể hình dung được lò có hình dáng giống như một con ếch dài khoảng 7 mét, bề ngang chỗ rộng nhất khoảng 3-4 mét, cửa lò rộng khoảng 1,2 mét, cao 1 mét. Đáy lò phẳng nằm ngang, vòm lò cao khoảng từ 2 mét đến 2,7 mét. Bên hông lò có một cửa ngách rộng 1 mét, cao 1,2 mét phục vụ cho việc chồng lò và dỡ sản phẩm. Lò có 3 ống khói thẳng đứng cao 3-3,5 mét. Trong mỗi bầu lò người ta chia thành 5 khu vực xếp sản phẩm là hàng dàn, hàng gáy, hàng giữa, hàng chuột chạy và hàng mặt. Trong quá trình lâu dài sử dụng lò ếch, để khắc phục nhược điểm của lớp đất gia cố bên trong và sàn lò, người ta thay vào đó lớp gạch mộc và vữa ghép lại. 2. Lò đàn Xuất hiện vào giữa thế kỉ 19. Lò đàn có bầu lò dài 9 mét, rộng 2,5 mét, cao 2,6 mét được chia thành 10 bích bằng nhau. Vị trí phân cách giữa các bích là hai nống cột. Cửa lò rộng 0,9 mét, cao l mét. Bích thứ 10 gọi là bích đậu thông với buồng thu khói qua 3 cửa hẹp. Để giữ nhiệt, bích lò kéo dài và ôm lấy buồng thu khói. Lớp vách trong ghép gạch Bát Tràng, lớp vách ngoài xây bằng gạch dân dụng. Mặt dưới của cật lò gần như bằng phẳng còn mặt trên hình vòng khum. Hai bên cật lò từ bích thứ 2 đến bích thứ 9 người ta dấu mở hai cửa nhỏ hình tròn, đường kính 0,2 mét gọi là các lỗ giòi để ném nhiên liệu vào trong bích. Riêng bích đậu người ta mở lỗ đậu lỗ giòi rộng hơn nửa mét. Nhiệt độ lò đàn có thể đạt được 1250–1300 °C. 3. Lò bầu, hay lò rồng Xuất hiện vào đầu thế kỉ 20. Lò bầu chia ra làm nhiều ngăn, thường có từ 5 đến 7 bầu cũng có khi đến 10 bầu. Bầu lò có vòm cuốn liên tiếp vuông góc với trục tiêu của lò tựa như những mảnh vỏ sò úp nối với nhau. Người ta dùng gạch chịu lửa đề xây dựng vòm cuốn của lò. Lò dài khoảng 13 mét cộng với đoạn để xây ống khói ở phía đuôi dài 2 mét thì toàn bộ độ dài của lò tới 15 mét. Độ nghiêng của trục lò khoảng 12-15⁰. Nhiệt độ của lò bầu có thể đạt tới 1300 °C. 4. Lò hộp hay lò đứng Khoảng năm 1975 trở lại đây người Bát Tràng chuyển sang xây dựng lò hộp để nung gốm. Lò thường cao 5 mét rộng 0,9 mét, bên trong xây bằng gạch chịu lửa giống như xây tường nhà. Lò mở hai cửa, kết cấu đơn giản, chiếm ít diện tích, chi phí xây lò không nhiều, tiện lợi cho quy mô gia đình. Vì thế hầu như gia đình nào cũng có lò gốm, thậm chí mỗi nhà có đến 2, 3 lò. Nhiệt độ lò có thể đạt 1250 °C. 5. Lò con thoi hay lò gas, lò tuynen lò hầm, lò liên tục Trong những năm gần đây, Bát Tràng xuất hiện thêm những kiểu lò hiện đại là lò con thoi, hoặc lò tuynen, với nhiên liệu là khí đốt hoặc dầu. Trong quá trình đốt, nhiệt độ được theo dõi qua hỏa kế, việc điều chỉnh nhiệt độ mà thực chất là quá trình tăng giảm nhiên liệu được thực hiện bán tự động hoặc tự động, công việc đốt lò trở nên đơn giản hơn nhiều. Tuy nhiên, đây không phải là những lò truyền thống của Bát Tràng. E. Bao nung Trước đây, các lò gốm Bát Tràng dùng một loại gạch vuông ghép lại làm bao nung. Loại gạch này sau hai ba lần sử dụng trong lò đạt đến độ lửa cao và cứng gần như sành đó chính là gạch Bát Tràng nổi tiếng. Gần đây bao nung thường được làm bằng đất sét chịu lửa có màu xám sẫm trộn đều với bột gạch hoặc bao nung hỏng nghiền nhỏ gọi là sa mốt với tỉ lệ 25–35% đất sét và 65–75% sa mốt. Người ta dùng một lượng nước vừa đủ để trộn đều và đánh nhuyễn chất hỗn hợp này rồi đem in dập thành bao nung hay đóng thành gạch ghép ruột lò. Bao nung thường hình trụ để cho lửa có điều kiện tiếp xúc đều với sản phẩm. Tuỳ theo sản phẩm mà bao nung có kích thước không giống nhau nhưng phổ biến hơn cả là loại có đường kính từ 15 đến 30 cm, dày 2–5 cm và cao từ 5 đến 40 cm. Một bao nung có thể dùng từ 15 đến 20 lần. Nếu sản phẩm được đốt trong lò con thoi hoặc lò tuynen, thường không cần dùng bao nung. F. Nhiên liệu để nung Gốm Bát Tràng Đối với loại lò ếch có thể dùng các loại rơm, rạ, tre, nứa để đốt lò, sau đó Bát Tràng dùng kết hợp rơm rạ với các loại “củi phác” và “củi bửa” và sau nữa thì củi phác và củi bửa dần trở thành nguồn nhiên liệu chính cho các loại lò gốm ở Bát Tràng. Củi bửa và củi phác sau khi đã bổ được xếp thành đống ngoài trời, phơi sương nắng cho ải ra rồi mới đem sử dụng. Đối với loại lò đàn, tại bầu, người ta đốt củi phác còn củi bửa được dùng để đưa qua các lỗ giòi, lỗ đậu vào trong lò. Khi chuyển sang sử dụng lò đứng, nguồn nhiên liệu chính là than cám còn củi chỉ để gầy lò. Than cám đem nhào trộn kĩ với đất bùn theo tỷ lệ nhất định có thể đóng thành khuôn hay nặn thành bánh nhỏ phơi khô. Nhiều khi người ta nặn than ướt rồi đập lên tường khô để tường hút nước nhanh và than chóng kết cứng lại và có thể dùng được ngay. Hiện nay để bảo vệ môi trường cũng như thuận tiện trong quá tình làm việc, cũng như tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, đẹp. Nhiên liệu được sử dụng là những loại khí đốt hóa lỏng. G. Chồng lò Sản phẩm mộc sau quá trình gia công hoàn chỉnh được đem vào lò nung. Việc xếp sản phẩm trong lò nung như thế nào là tuỳ theo sản phẩm và hình dáng kích, cỡ của bao nung trên nguyên tắc vừa sử dụng triệt để không gian trong lò vừa tiết kiệm được nhiên liệu mà lại đạt hiệu nhiệt cao. Bởi cấu tạo của mỗi loại lò khác nhau nên việc chồng lò theo từng loại lò cũng có những đặc điểm riêng. Đối với loại lò ếch, người ta xếp sản phẩm từ gáy lò ra tới cửa lò, còn đối với loại lò đàn thì người ta xếp sản phẩm từ bích thứ 2 đến bích thứ 10 riêng bích thứ 10 vì lửa kém nên sản phẩm thường để trần không cần có bao nung ở ngoài. Ở bầu cũi lợn bầu đầu tiên nơi dành để đốt nhiên liệu, có nhiệt độ cao nên đôi khi người ta xếp các loại sản phẩm trong các bao ngoại cỡ. Sản phẩm được xếp trong lò bầu giống như lò đàn. Riêng đối với lò hộp, tất cả các sản phẩm đều được đặt trong các bao nung hình trụ không đậy nắp và xếp chồng cao dần từ đáy lên nóc, xung quanh tường lò và chỗ khoảng trống giữa các bao nung đều được chèn các viên than. Làng Bát Tràng xưa có các phường Chồng Lò, mỗi phường thường gồm 7 người 3 thợ cả, 3 thợ đệm và 1 thợ học việc. Họ chia thành 3 nhóm trong đó mỗi nhóm có 1 thợ cả và 1 thợ đệm, còn thợ học việc có nhiệm vụ bưng bao nung và sản phẩm mộc phục vụ cho cả ba nhóm trên. Nhóm thứ nhất có nhiệm vụ chồng đáy xếp bao nung và sản phẩm ba lớp từ đáy lên, nhóm thứ hai có nhiệm vụ chồng giữa xếp ba lớp giữa, còn nhóm thứ ba là nhóm gọi mặt xếp ba lớp cuối cùng ở vị trí cao nhất trong lò. Phường Chồng Lò ở Bát Tràng chủ yếu tập hợp những người thợ gốm ở Sài Sơn Quốc Oai, Hà Tây và Vân Đình Mỹ Đức, Hà Tây chuyên phục vụ chơ các lò gốm Bát Tràng. H. Đốt lò Nhìn chung đối với các loại lò ếch, lò đàn, lò bầu thì quy trình đốt lò đều tương tự nhau và với kinh nghiệm của mình, người “thợ cả” có thể làm chủ được ngọn lửa trong toàn bộ quá trình đốt lò. Ở lò đàn khoảng một nửa ngày kể từ khi nhóm lửa người ta đốt nhỏ lửa tại bầu cũi lợn để sấy lò và sản phẩm trong lò. Sau đó người ta tăng dần lửa ở bầu cũi lợn cho đến khi lửa đỏ lan tới bích thứ tư thì việc tiếp củi ở các bầu cũi lợn được dừng lại. Tiếp tục ném củi bửa qua các lỗ giòi. Người xuất cả bằng kinh nghiệm của mình kiểm tra kỹ các bích và ra lệnh ngừng ném củi bửa vào bích nào khi biết sản phẩm ở bích đó đã chín. Càng về cuối sản phẩm chín càng nhanh. Khi sản phẩm trong bích đậu đã sắp chín thì người thợ cả quyết định ném dồn dập trong vòng nửa tiếng khoảng 9-10 bó củi bửa qua lỗ đậu rồi kết thúc việc tiếp củi. Trong phường đốt lò, người phường trưởng xuất cả phụ trách chung về kỹ thuật, hai người thợ đốt ở cửa lò đốt dưới, bốn người chuyên ném củi bửa qua các lỗ giòi đốt trên. Sau khi nung xong người ta bịt hết các cửa lò, lỗ giòi, lỗ xem lửa để làm nguội từ từ. Quá trình làm nguội trong lò kéo dài 2 ngày 2 đêm, sau đó mới mở cửa lò và để tiếp 1 ngày 1 đêm nữa rồi mới tiến hành ra lò. Đối với lò đứng, việc đốt lò trở nên đơn giản hơn nhiều vì khi hoàn tất khâu chồng lò cũng có nghĩa là đã kết thúc việc nạp nhiên liệu. Thế nhưng do đặc điểm của lò, người thợ đốt lò dù có dày dạn kinh nghiệm cũng rất khó có thể làm chủ được ngọn lửa, đây thực sự là vấn ra khó khăn nhất trong khâu kĩ thuật ở làng Bát Tràng. Người ta dùng gạch chịu lửa bịt cửa lò lại rồi nhóm lò bằng củi. Lửa cháy bén vào than và bốc từ dưới lên. Than trong lò cháy hết cũng là lúc kết thúc công việc đốt lò. Thời gian đốt lò kể từ lúc nhóm lửa đến khi hoàn toàn tắt lửa kéo dài khoảng 3 ngày 3 đêm. Sau khi lò nguội, sản phẩm ra lò được đánh giá phân loại và sửa chữa lại các khuyết tật nếu có thể được trước khi đem ra phân phối sử dụng. Toàn bộ quy trình làm Gốm được diễn ra theo đúng trình tự, từng khâu, từng khâu phải thật cẩn thận, chu đáo. Tạo nên được những sản phẩm bóng mịn, sạch, đẹp với những hoa văn tinh tế, hài hòa. Làm nên chất lượng, thương hiệu của sản phẩm Gốm Bát Tràng. Bát Tràng Mall Sưu tầm & biên soạn
quy trình làm gốm bát tràng